Câu 1
Đọc bài văn sau và trả lời các câu hỏi:
Vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh có một không hai của đất nước Việt Nam.
Cái đẹp của Hạ Long trước hết là sự kì vĩ của thiên nhiên. Trên một diện tích hẹp mọc lên hàng nghìn đảo nhấp nhô khuất khúc như rồng chầu phượng múa. Đảo có chỗ sừng sững chạy dài như bức tường thành vững chãi, ngăn khơi với lộng, nối mặt biển với chân trời. Có chỗ đảo dàn ra thưa thớt, hòn này với hòn kia biệt lập, xa trông như quân cờ bày chon von trên mặt biển. Tùy theo sự phân bố của đảo, mặt vịnh Hạ Long lúc tỏa mênh mông, lúc thu hẹp lại thành ao, thành vũng, lúc bị kẹp giữa hai triền đảo như một dòng suối, lúc uốn quanh chân đảo như dải lụa xanh.
Thiên nhiên Hạ Long chẳng những kì vĩ mà còn duyên dáng. Nét duyên dáng của Hạ Long chính là cái tươi mát của sóng nước, cái rạng rỡ của đất trời. Sóng nước Hạ Long quanh năm trong xanh. Đất trời Hạ Long bốn mùa sáng nắng. Bốn mùa Hạ Long mang trên mình một màu xanh đằm thắm: xanh biếc của biển, xanh lam của núi, xanh lục của trời. Màu xanh ấy như trường cửu, lúc nào cũng bát ngát, cũng trẻ trung, cũng phơi phới.
Tuy bốn mùa là vậy, nhưng mỗi mùa Hạ Long lại có những nét riêng biệt, hấp dẫn lòng người. Mùa xuân của Hạ Long là mùa sương và cá mực. Mùa hè của Hạ Long là mùa mùa gió nồm nam và cá ngừ, cá vược. Mùa thu của Hạ Long là mùa trăng biển và tôm he… Song quyến rũ hơn cả vẫn là mùa hè của Hạ Long. Những ngày hè đi bên bờ biển Hạ Long ta có cảm giác như đi trước cửa gió. Ngọn gió lúc êm ả như ru, lúc phần phật như quạt, mang cái trong lành, cái tươi mát của đại dương vào đất liền, làm sảng khoái tâm hồn ta. Trong tiếng gió thổi, ta nghe tiếng thông reo, tiếng sóng vỗ, tiếng ve ran và cả tiếng máy, tiếng xe, tiếng cần trục từ trên các tầng than, bến cảng vòng lại. Những âm thanh của sự sống trăm ngả tụ về, theo gió ngân lên vang vọng.
Núi non, sóng nước tươi đẹp của Hạ Long là một bộ phận của non sông Việt Nam gấm vóc mà nhân dân ta đời nọ tiếp đời kia mãi mãi giữ gìn.
Theo Thi Sảnh
- Kì vĩ: lớn lao lạ thường
- Khơi: vùng biển xa bờ
- Lộng: vùng biển gần bờ
a) Xác định phần mở bài, thân bài, kết bài của bài văn trên.
b) Phần thân bài gồm có mấy đoạn? Mỗi đoạn miêu tả những gì?
c) Những câu in đậm có vai trò gì trong mỗi đoạn văn và trong cả bài?
Gợi ý:
a) Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả.
Thân bài: Miêu tả chi tiết về cảnh
Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.
Trả lời:
a) Mở bài: “Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh có một không hai của đất nước Việt Nam.”
b) Thân bài: Đoạn văn số 2, 3, 4: Từ “Cái đẹp của Hạ Long…” đến “…theo gió ngân lên vang vọng.”
c) Kết bài: “Núi non, sóng nước tươi đẹp của Hạ Long là một bộ phận của non sông Việt Nam gấm vóc mà nhân dân ta đời nọ tiếp đời kia mãi mãi giữ gìn.”
Câu 2
Chọn câu mở đoạn cho sẵn phù hợp với đoạn văn
[…..] Phần phía nam của dải Trường Sơn nằm ở đây với nhiều ngọn núi cao từ 2000 đến 2600 mét, quanh năm mây phủ trắng đầu. Bên những chóp núi cao là những thảm rừng dày. Có nhiều khu nguyên sinh từ bao đời nay chưa in dấu chân người. |
Câu mở đoạn:
a) Tây Nguyên là miền đất núi non điệp trùng.
b) Tây Nguyên có núi cao chất ngất, có rừng cây đại ngàn.
c) Đến với Tây Nguyên là đến với mảnh đất của những cánh rừng hoang sơ.
Gợi ý:
Em đọc kĩ đoạn văn đã cho và cả các câu văn trong đáp án. Rồi xét xem câu văn nào nói được ý của cả đoạn văn đã cho thì lựa chọn
Trả lời:
Tây Nguyên có núi cao chất ngất, có rừng cây đại ngàn. Phần phía nam của dải Trường Sơn nằm ở đây với nhiều ngọn núi cao từ 2000 đến 2600 mét, quanh năm mây phủ trắng đầu. Bên những chóp núi cao là những thảm rừng dày. Có nhiều khu nguyên sinh từ bao đời nay chưa in dấu chân người.
Câu 3
Viết câu mở đoạn cho đoạn văn trên theo ý của riêng em:
Gợi ý:
Em đọc kĩ những câu văn có trong đoạn rồi tìm một câu có thể khái quát ý chính của đoạn làm câu mở đoạn.
Trả lời:
Nghĩ về Tây Nguyên ta sẽ nhớ đến một vùng núi non trùng điệp, cao chót vót với những cánh rừng xanh bạt ngàn. Phần phía nam của dải Trường Sơn nằm ở đây với nhiều ngọn núi cao từ 2000 đến 2600 mét, quanh năm mây phủ trắng đầu. Bên những chóp núi cao là những thảm rừng dày. Có nhiều khu nguyên sinh từ bao đời nay chưa in dấu chân người.
Câu 4
Nghe thầy cô kể chuyện Cây cỏ nước Nam
Nội dung câu chuyện:
Cây cỏ nước Nam
Nguyễn Bá Tĩnh, tức Tuệ Tĩnh, là một danh y đời Trần. Một lần, ông dẫn các học trò đi ngược vùng Phả Lại để lên núi Nam Tào, Bắc Đẩu, hai ngọn núi cao uy nghi sừng sững đối mặt với một vùng sông nước hiểm trở. Dọc hai bên đường lên núi là những bụi sâm nam lá xòe như những bàn tay, những bụi cây đinh lăng lá xanh mướt, những bụi cam thảo nam leo vướng vít cả mặt đường.
Dừng chân bên sườn núi, ông trầm ngâm nói với học trò:
- Ta đưa các con đến đây để nói cho các con biết rõ điều mà ta suy nghĩ nung nấu từ mấy chục năm nay.
Vài học trò xì xào:
- Chắc hẳn là điều gì cao siêu lắm nên thầy mới phải nung nấu lâu như thế.
Nguyễn Bá Tĩnh lắc đầu:
- Điều ta sắp nói với các con không cao như núi Thái Sơn, cũng chẳng xa như biển Bắc Hải mà ở gần trong tầm tay, ở ngay dưới chân các con đó.
Tất cả học trò đều im lặng, duy có người trưởng tràng kính cẩn hỏi:
- Thưa thầy, điều thầy định nói với chúng con có phải là cây cỏ dưới chân…
- Phải, ta muốn nói về ngọn cây và sợi cỏ mà hằng ngày các con vẫn giẫm lên… Chúng chính là một đội quân hùng mạnh góp vào với các đạo hùng binh của các bậc thánh nhân như Hưng Đạo Vương đánh tan giặc Nguyên xâm lược.
Rồi ông từ tốn kể:
- Ngày ấy, giặc nguyên nhòm ngó nước ta. Vua quan nhà Trần lo việc phòng giữ bờ cõi rất cẩn thận. Bên cạnh việc luyện tập dân bình, triều đình còn cắt cử người đôn đốc rèn vũ khí, chuẩn bị voi ngựa, lương thực, thuốc men,… Song, từ lâu nhà Nguyên đã cấm chở thuốc men, vật dụng xuống bán cho người Nam. Khi giáp trận tất có người bị thương và đau ốm lấy gì cứu chữa? Không chậm trễ, các thái y đã tỏa đi khắp mọi miền quê học cách chữa bệnh của dân gian bằng cây cỏ bình thường.Từ đó, vườn thuốc được lập ở khắp nơi. Núi Nam Tào và Bắc Đẩu chính là hai ngọn dược sơn của các vua Trần xưa. Cây cỏ nước Nam đã góp phần làm cho những đạo binh thêm hùng hậu, bền bỉ, khỏe mạnh, can trường trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù mạnh hơn mình hàng chục lần, đông hơn mình hàng trăm lần…
Kể đến đây, Nguyễn Bá Tĩnh chậm rãi nói thêm:
- Ta càng nghĩ càng thêm quý từng ngọn cây, từng sợi cỏ của non sông gấm vóc tổ tiên để lại. Ta định nối gót người xưa để từ nay về sau dân ta có thể dùng thuốc nam chữa cho người Nam. Ta nói để các con biết ý nguyện của ta.
Theo con đường của danh y Tuệ Tĩnh, cho đến bây giờ, hàng trăm vị thuốc đã được lấy từ cây cỏ nước Nam, hàng nghìn phương thuốc đã được tổng hợp từ phương thuốc dân gian để trị bệnh cứu người.
Câu 5
Dựa vào các tranh và lời thuyết minh dưới tranh, mỗi em hãy kể lại một đoạn của câu chuyện.
Tranh 1: Danh y Tuệ Tĩnh dẫn học trò lên núi để nói về điều ông đã nung nấu từ lâu
Tranh 2: Ngày ấy, giặc Nguyên nhòm ngó nước ta. Nhà Trần phải lo phòng giữ bờ cõi.
Tranh 3: Nhà Nguyên từ lâu cấm chở thuốc men, vật dụng sang bán cho người Nam ta…
Tranh 4: Các thái y của ta toả đi khắp mọi miền quê học cách chữa bệnh trong dân gian
Tranh 5: Cây cỏ nước Nam đã góp phần làm cho các đạo binh của ta thêm hùng hậu…
Tranh 6: Tuệ Tĩnh nói với học trò về ý nguyện nối gót người xưa của mình
Gợi ý:
Em quan sát tranh và đọc kĩ phần gợi ý cho mỗi bức tranh rồi kể lại.
Trả lời:
Tranh 1:
Ông Nguyễn Tuệ Tĩnh, tức danh y Tuệ Tĩnh, từng đỗ tiến sĩ đệ nhị bảng nhưng không ra làm quan mà ở nhà theo đuổi nghề y. Một hôm, ông dẫn các học trò lên hai ngọn núi Nam Tào và Bắc Đẩu. Dọc đường lên núi là những bụi sâm nam, đinh lăng và cam thảo, ông chỉ vào những bụi cây ấy và nói:
- Ta đưa các con đến đây để nói cho các con biết rõ điều mà ta suy nghĩ nung nấu từ mấy chục năm nay.
Hoá ra điều mà Tuệ Tĩnh vốn nung nấu bao lâu chính là về những cây cỏ ngay dưới chân của mình và học trò.
Tranh 2:
Rồi ông kể lại cho các học trò của mình nghe câu chuyện ngày xưa: Hồi ấy, giặc Nguyên (còn gọi là giặc Thát) đem quân xâm lược nước ta. Vua quan nhà Trần lo luyện tập võ nghệ chuẩn bị kháng chiến bảo vệ giang sơn bờ cõi của mình
Tranh 3:
một điều làm cho vua quan nhà Trần hết sức lo lắng. Đó là việc nhà Nguyên cấm chở thuốc men vật dụng xuống bán cho người Nam.
Tranh 4:
Có Để có thuốc chữa bệnh cho binh lính bị thương và đau ốm, vua sai các Thái y tỏa di khắp mọi miền quê học cách chữa bệnh của dân gian bằng cây cỏ bình thường. Từ đó vườn thuốc được lập ở khắp nơi. Núi Nam Tào và Bắc Đẩu là hai ngọn núi dược sơn của các vua Trần xưa. Nhờ chủ trương ấy mà nơi nơi đều có những vườn thuốc Nam chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
Tranh 5:
Những vườn thuốc ấy đã giúp ích rất nhiều trong việc chữa trị cho binh lính khi bị thương hoặc đau yếu
Tranh 6:
Kể đến đó, danh y dừng lại một lúc rồi chậm rãi nói: - Ta càng nghĩ, càng thêm quí yêu từng ngọn cây đọt cỏ mà tổ tiên ta để lại. Ta định nối gót người xưa để từ nay về sau dân ta có thể dùng thuốc Nam để chữa bệnh cho người Nam ta. Đó chính là ý nguyện của ta mà hôm nay ta dẫn các con lên hai ngọn núi này.
Theo con đường của danh y Tuệ Tĩnh, cho đến bây giờ, hàng trăm vị thuốc đã được lấy từ cây cỏ nước Nam, hàng nghìn phương thuốc đã được tổng hợp từ phương thuốc dân gian để trị bệnh cứu người.
Câu 6
Kể tóm tắt câu chuyện Cây cỏ nước Nam
Gợi ý:
- Câu chuyện có những nhân vật nào?
- Danh y Nguyễn Bá Tĩnh đã dẫn những học trò của mình đi đâu?
- Ông đã kể cho các học trò nghe chuyện gì?
- Ông nói với các học trò ý nguyện gì của mình?
- Cho đến giờ cây cỏ nước Nam đã có lợi ra sao?
Trả lời:
Ông Nguyễn Tuệ Tĩnh, tức danh y Tuệ Tĩnh, từng đỗ tiến sĩ đệ nhị bảng nhưng không ra làm quan mà ở nhà theo đuổi nghề y. Một hôm, ông dẫn các học trò lên hai ngọn núi Nam Tào và Bắc Đẩu. Dọc đường lên núi là những bụi sâm nam, đinh lăng và cam thảo, ông chỉ vào những bụi cây ấy và nói:
- Ta đưa các con đến đây để nói cho các con biết rõ điều mà ta suy nghĩ nung nấu từ mấy chục năm nay.
Hoá ra điều mà Tuệ Tĩnh vốn nung nấu bao lâu chính là về những cây cỏ ngay dưới chân của mình và học trò.
Rồi ông kể lại cho các học trò của mình nghe câu chuyện ngày xưa: Hồi ấy, giặc Nguyên (còn gọi là giặc Thát) đem quân xâm lược nước ta. Vua quan nhà Trần lo luyện tập võ nghệ chuẩn bị kháng chiến bảo vệ giang sơn bờ cõi của mình.
Một điều làm cho vua quan nhà Trần hết sức lo lắng. Đó là việc nhà Nguyên cấm chở thuốc men vật dụng xuống bán cho người Nam.
Có Để có thuốc chữa bệnh cho binh lính bị thương và đau ốm, vua sai các Thái y tỏa di khắp mọi miền quê học cách chữa bệnh của dân gian bằng cây cỏ bình thường. Từ đó vườn thuốc được lập ở khắp nơi. Núi Nam Tào và Bắc Đẩu là hai ngọn núi dược sơn của các vua Trần xưa. Nhờ chủ trương ấy mà nơi nơi đều có những vườn thuốc Nam chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
Những vườn thuốc ấy đã giúp ích rất nhiều trong việc chữa trị cho binh lính khi bị thương hoặc đau yếu
Kể đến đó, danh y dừng lại một lúc rồi chậm rãi nói: - Ta càng nghĩ, càng thêm quí yêu từng ngọn cây đọt cỏ mà tổ tiên ta để lại. Ta định nối gót người xưa để từ nay về sau dân ta có thể dùng thuốc Nam để chữa bệnh cho người Nam ta. Đó chính là ý nguyện của ta mà hôm nay ta dẫn các con lên hai ngọn núi này.
Theo con đường của danh y Tuệ Tĩnh, cho đến bây giờ, hàng trăm vị thuốc đã được lấy từ cây cỏ nước Nam, hàng nghìn phương thuốc đã được tổng hợp từ phương thuốc dân gian để trị bệnh cứu người.
Câu 7
a) Thi kể chuyện trước lớp (kể tóm tắt)
Đại diện các nhóm kể tóm tắt câu chuyện trước lớp
b) Trao đổi về ý nghĩa câu chuyện
- Câu chuyện ca ngợi điều gì ở danh y Nguyễn Bá Tĩnh?
- Câu chuyện nhắc nhở chúng ta điều gì?
Gợi ý:
Em làm theo yêu cầu của bài tập.
Trả lời:
Ý nghĩa câu chuyện:
- Câu chuyện ca ngợi danh y Tuệ Tĩnh có tài và đức to lớn trong việc tìm ra những vị thuốc chữa bệnh hữu hiệu cho nhân dân từ cây cỏ nước Nam.
- Nhắc nhở chúng ta về giá trị to lớn của cây cỏ nước Nam. Cây cỏ thiên nhiên mang lại cho chúng ta bao điều quý giá, chúng ta hãy yêu quý, giữ gìn và phát triển chúng.