Lần cân thứ nhất cho: \({m_T} = {m_b} + {m_n} + {m_v} + {m_1}\)
Lần cân thứ hai cho: \({m_T} = {m_b} + ({m_n} - {m_{{n_0}}}) + {m_v} + {m_2}\)
Trong phương trình (1), \({m_n}\) là khối lượng của nước chứa trong bình tới vạch đánh dấu, \({m_b}\) là khối lượng bình, \({m_v}\) là khối lượng vật.
Trong phương trình (2), \({m_{{n_0}}}\) là khối lượng của phần nước bị vật chiếm chỗ.
Từ (1) và (2), ta có \({m_{{n_0}}}={m_2}-{m_1}\)
- Vì \(1\)gam nước nguyên chất có thể tích là \(1c{m^3}\), nên số đo khối lượng \({m_{{n_0}}}\) theo đơn vị gam là số đo thể tích của phần nước bị vật chiếm chỗ theo đơn vị \(c{m^3}\). Thể tích của phần nước bị vật chiếm chỗ chính là thể tích của vật, do đó thể tích của vật tính ra \(c{m^3}\) có độ lớn bằng \(({m_2}-{m_1})\) .
- Cách xác định vật thể như trên chính xác hơn cách xác định bằng bình chia độ, đo khối lượng bằng cân Rô-béc-van chính xác hơn đo thể tích bằng bình chia độ do:
+) GHĐ của cân Rô-béc-van nhỏ hơn GHĐ của bình chia độ rất nhiều.
+) Cách đọc mực nước ở bình chia độ khó chính xác hơn cách theo dõi kim của cân ở vị trí cân bằng. Mặt khác, cách cân hai lần như trên loại trừ được những sai số đo do cân cấu tạo không được tốt, chẳng hạn hai phần của đòn cân không thật bằng nhau về chiều dài cũng như khối lượng.