Tác giả
I. Tác giả
1. Tiểu sử - Cuộc đời
- Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941)
- Ta-go sinh tại Kalculta trong một gia đình thuộc đẳng cấp Brahman – đẳng cấp cao nhất trong xã hội Ấn Độ (Brahman – Kshastriya – Vaisya – Soudra – Pariah). Cha của Tagore là một điền chủ giàu có đồng thời là một nhà cải cách tôn giáo, có nhiều đóng góp cho xã hội Ấn Độ.
- Là một nhà thơ, nhà văn, đồng thời là một nhà văn hóa lớn, có nhiều đóng góp cho dân tộc Ấn Độ và nhân loại.
- Ông để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng xuất sắc.
2. Sự nghiệp văn học
a. Các tác phẩm chính
- Ông để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào ông cũng thành công suất sắc:
+ 52 tập thơ.
+ 12 bộ tiểu thuyết.
+ 42 vở kịch.
+ Hàng trăm truyện ngắn, hàng nghìn ca khúc, hàng nghìn bức hoạ...
- Năm 1913, Ta-go là người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học với tập "Thơ Dâng" (gồm 103 bài, sáng tác từ 1890-1912 và ông tự dịch ra tiếng Anh).
b. Phong cách nghệ thuật
- Ta-go đem đến cho thi ca Ấn Độ một không khí thanh sảng, thiêng liêng mà gần gũi, thân tình; biểu đạt những rung động tinh tế trong tâm hồn thi sĩ trước đất nước, quê hương, thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình yêu bằng một giọng điệu nồng nàn, tha thiết.
- Thơ Ta-go cũng chứa đựng những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và tình yêu. Chất trữ tình - triết lí hòa quyện khó mà phân cắt trong một bài thơ của Ta-go.
Tác phẩm
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a. Xuất xứ - Hoàn cảnh ra đời
* Xuất xứ:
- Bài thơ số 28 trích trong tập Người làm vườn (các bài trong tập thơ này không có nhan đề mà chỉ đánh số thứ tự).
* Tập thơ "Người làm vườn"
- Là một trong những tập thơ nổi tiếng của Ta-go, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và chinh phục độc giả nhiều nước.
- Gồm 85 bài thơ, sáng tác bằng tiếng Ben-gan, sau tác giả tự dịch sang tiếng Anh và xuất bản năm 1914.
- Tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lí, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tinh thần nhân loại.
* Hoàn cảnh ra đời
- Bài thơ này ông làm khi người vợ yêu dấu Mri-na-li-ni-đê-vi qua đời (1902).
b. Bố cục:
+ Phần 1 (Từ đầu đến…không biết gì tất cả về anh): Khát vọng hòa hợp trong tình yêu.
+ Phần 2 (Tiếp đến…em có biết gì về biên giới của nó đâu): Khát vọng dâng hiến trong tình yêu.
+ Phần 3 (Còn lại): Sự vô cùng của cuộc đời – trái tim – tình yêu.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Khát vọng hòa hợp trong tình yêu
- Đôi mắt: Cửa sổ tâm hồn, chứa đựng suy tư của con người. Với Ta-go, đôi mắt còn là ngọn nguồn của tình yêu.
- Đôi mắt: Băn khoăn, buồn, muốn nhìn sâu vào tâm tưởng của anh.
=> Đôi mắt rụt rè, chất chứa suy tư khao khát khám phá thế giới tâm hồn bí ẩn của người yêu.
=> Tâm trạng chung của những người đang yêu.
- Hình ảnh so sánh tượng trưng:
+ Mắt em – trăng: Thế giới nội tâm phong phú, trong sáng.
+ Tâm tưởng của anh – biển cả: Thế giới bí ẩn, bao la.
=> Trăng và biển là biểu tượng thiên nhiên sóng đôi, thể hiện khát khao hòa chung tâm tưởng của đôi tình nhân được đẩy lên đỉnh điểm.
=> Hình ảnh so sánh trong sáng, diễm lệ, tiêu biểu cho quan niệm về con người của Ta-go và Ấn Độ.
- Hành động của chàng trai:
+ Chàng trai: cuộc đời trần trụi dưới mắt em, không giấu một điều gì (bare, nothing hidden, nothing held back)
=> Khẳng định ước muốn tha thiết muốn hòa hợp.
- Nghịch lý: Cô gái lại “không biết gì tất cả về anh”.
=> Cả hai cùng nỗ lực vươn tới nhau nhưng hiểu biết viên mãn về nhau có thể vẫn bất khả.
=> Triết lý tình yêu: Tình yêu luôn là sự khao khát hòa nhập và khám phá tâm hồn nhau bởi tình yêu luôn là một bí ẩn.
b. Khát vọng dâng hiến trong tình yêu
- Cấu trúc giả định: Nếu A chỉ là B.
- Hai câu thơ đầu khổ 2:
+ Đời anh chỉ là viên ngọc.
+ Đời anh chỉ là đóa hoa.
=> Hiện thực hóa cuộc đời (trừu tượng) thành những sự vật cụ thể, tượng trưng cho sự quý giá (ngọc) và thanh cao (hoa). Cuộc đời của thi nhân ngầm chứa sự quý giá và thanh cao ấy.
- Sự hi sinh của chàng trai:
+ Nếu cuộc đời là viên ngọc: nguyện “đập vỡ”, “xâu thành chuỗi quàng vào cổ em”.
+ Nếu cuộc đời là đóa hoa: “hái nó đặt lên mái tóc em”.
=> Kết hợp với những động từ mạnh: “đập” (break), “hái” (pluck) nhằm nhấn mạnh khát vọng tận hiến nồng nhiệt của chàng trai.
- Sự phủ định: Nhưng A (không là B) lại là C (Đời anh không là ngọc, là hoa mà là trái tim không biên giới)
- Cách ví von tình tứ: Em là nữ hoàng của vương quốc đó => Tiếng nói của anh chàng si tình, nguyên dâng hiến trái tim vô biên cho người mình yêu.
=> Nghịch lý: Xuất phát từ mong muốn tìm hiểu cuộc đời người mình yêu của cô gái, chàng trai đã không ngần ngại phơi bày cho cô thấy; nhưng càng muốn phơi bày bao nhiêu thì cô gái lại càng như rơi vào mê trận vô biên của trái tim và tình yêu. Càng tìm hiểu, tình yêu càng mông lung, khó nắm bắt.
c. Sự vô cùng của cuộc đời – trái tim – tình yêu
- Lặp lại cấu trúc giả định sóng đôi nhau:
+ Trái tim (cụ thể) – phút giây lạc thú (trừu tượng) – nở ra thành nụ cười nhẹ nhõm.
+ Trái tim (cụ thể) – khổ đau (trừu tượng) – tan thành lệ trong, phản chiếu nỗi niềm u ẩn.
=> Hai trạng thái tâm lý trái ngược nhau: niềm vui và nỗi buồn, từ đó thể hiện khát khao phơi trải cho người mình yêu thấu suốt trái tim được dề dàng hơn.
- Cấu trúc phủ định: Nhưng A không là B mà lại là C.
=> Lặp cấu trúc phủ định kết hợp sử dụng tính từ trái nghĩa vui sướng – khổ đau, đòi hỏi (mong muốn) – giàu sang (sở hữu) cùng với tính từ chỉ sự vô hạn về không gian thời gian (vô biên, trường cửu)
=> Tô đậm đặc điểm của trái tim tình yêu: Trái tim tình yêu không hề đơn giản, nó là sự tổng hòa của những tâm trạng phức tạp, thậm chí là đối nghịch nhau. Tất cả những điều đó đều tồn tại không phải chỉ trong phút giây chốc lát mà là mãi mãi.
- Nhà thơ đúc kết triết lý về tình yêu ở hai câu thơ cuối:
+ Đoạn 1: Xuất phát từ đôi mắt băn khoăn buồn của cô gái, chàng trai đã phơi bày toàn bộ cuộc đời mình trước mắt cô => Mối quan hệ: Cô gái – cuộc đời chàng trai là hai khách thể cùng tồn tại.
+ Đoạn 2: Cô gái – nữ hoàng của vương quốc trái tim chàng trai => Mối quan hệ: Sở hữu.
+ Đoạn 3: Trái tim anh ở gần em như chính đời em vậy => Mối quan hệ: Gần như đồng nhất.
Thế nhưng ở cả ba khổ nhà thơ đều kết luận: Dù thế nào cô gái cũng không hề biết trọn, biết hết về cuộc đời – trái tim – tình yêu của chàng trai.
=> Đúc kết triết lý mối quan hệ cuộc đời – trái tim – tình yêu
=> Logic lý trí trong thơ: Cuộc đời khai sinh ra tình yêu nhưng chính tình yêu mới làm cuộc đời thăng hoa, mới biến điều hữu hạn thành vô hạn, biến điều bình dị hóa phi thường.
d. Giá trị nội dung
Bài thơ thể hiện quan niệm về một tình yêu chân chính.
+ Tình yêu cần sự thấu hiểu, cần đến từ hai phía.
+ Tình yêu ẩn chứa nhiều bí ẩn, là một thế giới thiêng liêng, vô hạn.
+ Tình yêu là cuộc sống, hướng con người đến cái thiện, cái đẹp trong tâm.
e. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ sử dụng hình tượng so sánh độc đáo, diễn tả được những khao khát đẹp trong tình yêu.
- Tác giả dùng cấu trúc so sánh - ẩn dụ trùng điệp, cấu trúc sóng đôi một cách sáng tạo, đưa ra được những triết lí về tình yêu.
Nhận định
III. Một số nhận định về tác giả tác phẩm
1. "Ta-go đã sáng tạo nên một phong cách thơ độc đáo. Đó là một thành công lớn trong sự nghiệp thơ ca của ông. Chúng ta có thể bước đầu nhận diện phong cách thơ của Ta-go qua một số nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật của ông về cuộc sống, con người, về ngôn ngữ thơ, về tính trữ tình kết hợp với triết lí, chất hiện thực hòa quyện yếu tố lãng mạn".
(Theo Lê Nguyên Cẩn, Tác gia, tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường)
2. "Tình yêu trong thơ Ta-go không có cái dung tục tầm thường, không phải thứ tình yêu rầu rĩ, rên xiết, cũng không phải thứ tình yêu quá cao siêu, quá lí tưởng. Ta-go tìm sự hòa hợp giữa hai tâm hồn, tìm tự do trong tình yêu".
(Theo G.S Lưu Đức Trung, Văn học Ấn Đô)