Câu 1 :Hai câu đầu cho thấy kì thi có gì khác thường? (Chú ý phân tích kĩ từ "lẫn).
Trả lời:
Hai câu thơ đầu giới thiệu hoàn cảnh của khoa thi:
Hai câu đầu cho thấy sự khác thường của khoa thi Đinh Dậu (1897):
- Nhà nước: phản ánh tính chất bù nhìn của triều đình phong kiến.
- Lẫn: gợi quang cảnh lẫn lộn, bát nháo khi trường thi Hà Nội và Nam Định thi chung.
Câu 2:Anh (chị) có nhận xét gì về hình ảnh sĩ tử và quan trường? Từ hai câu thơ 3 và 4, anh (chị) có cảm nhận như thế nào về cảnh thi cử lúc bấy giờ?
Trả lời:
- Biện pháp đảo ngữ (lôi thôi, ậm ọe): sĩ tử và quan trường hiện lên luộm thuộm, nhếch nhác, thảm hại, sa sút nho phong sĩ khí.
- Hình ảnh vai đeo lọ, miệng thét loa: ồn ào, lố bịch, bát nháo, mất hết diện mạo tôn nghiêm và tôn ti trật tự.
=> Cảnh thi cử nhốn nháo, nhếch nhác, không còn không khí trang trọng, thiêng liêng của các kì thi xưa.
Câu 3 :Phân tích hình ảnh quan sứ, bà đầm và sức mạnh châm biếm, đả kích của biện pháp nghệ thuật đối ở hau câu 5,6.
Trả lời :
Hình ảnh quan sứ, bà đầm trong hai câu luận:
- Quan sứ, bà đầm: được đón tiếp long trọng ở trường thi, những nhân vật mới đại diện cho chế độ thực dân.
- Phép đối sâu cay: lọng quan sứ >< váy bà đầm: châm biếm, hạ nhục bọn cướp nước và bán nước, đồng thời thể hiện nỗi chua xót, nhục nhã cho số phận sĩ tử thời mạt vận và cho dân tộc nô lệ nói chung.
Câu 4 :Phân tích tâm trạng, thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi. Lời gọi của Tú Xương ở hai câu thơ cuối có ý nghĩa tư tưởng gì?
Trả lời :
- Hai câu thơ cuối thấm đẫm tính trữ tình, thể hiện tâm trạng đau xót, phẫn uất và nỗi lo lắng cho tình hình đất nước.
- Tình yêu nước thiết tha, sâu nặng của nhà thơ.