Đoạn văn nằm ở phần mở đẩu tác phẩm, sau cuộc trò chuyện của ngục quan và thầy thơ lại về Huấn Cao. Đây là bức tranh của nhà tù tỉnh Sơn đêm trước khi Huấn Cao vào trại giam. Đoạn văn thể hiện bút lực già dặn bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc tả cảnh ngụ tình, hé mở cho người đọc về con người thật của viên quản ngục, góp phần khẳng định sức tỏa sáng của hình tượng Huấn Cao giữa chốn ngục tù tăm tối.
Khung cảnh nhà tù tỉnh Sơn hiện lên trong không gian tối mịt với những âm thanh quen thuộc vọng lên chút sự sống quạnh quẽ nơi đây. Tiếng trống thu không, tiếng kiểng mõ đều đặn, thưa thớt nhịp vào không gian thêm quạnh vắng hoang vu. Cảnh ở đây yên tĩnh và đầy bất trắc, đầy rùng rợn với tiếng dội chó ma sủa tứ làng xa đi lại. Lấy động để tả tĩnh, Nguyễn Tuân đã dùng âm thanh làm nền đỏ bật lên khung cảnh hoang vu, tĩnh mịch đến lạnh lẽo của chốn tù lao - nơi ngự trị của cái ác và bóng tối, cảm tưởng như lẩn khất đâu đây chỉ toàn những bóng ma, không một chút sự sống. Có âm thanh nhưng chỉ vẳng lại từ xa thưa thớt và heo hắt, có hình ảnh của mặt đất nhưng chỉ thấy thăm thẳm cỏ đẫm sương. Nguyễn Tuân tả cảnh qua đôi mắt nhìn của viên quản ngục - đôi mắt chứa đầy tâm trạng, gợi bao suy tư, trăn trở. Đi qua vùng tâm tướng ấy, những cái song vô tư bỗng vô hình giam hãm, trói buộc những nhân cách, số phận con người. Những cái song ke những nét đen thẳng lên nền trời như vạch ranh giới hư ảo vào chốn ngục tù nơi đây. Trong màn đêm đen bao trùm cảnh vật, điểm vào những mảng sáng nhỏ nhoi của lốm đốm tinh tú, nhưng nếu chỉ có thế thì hẳn chốn tù lao sẽ mãi chìm khuất sau bóng tối dày đặc đang ngự trị. Nhà văn đã điểm vào nền tối ấy, ánh sáng của ngôi sao Hôm nhấp nháy, ngôi sao ấy như muốn trụt xuống phía chân trời không định, muốn từ biệt vũ trụ. Hình ảnh sao Hôm xuất hiện hai lần với cách nhân hóa gợi ấn tượng về người anh hùng Huấn Cao. Qua con mắt của viên quản ngục, Huấn Cao như một ngôi sao sáng, rực lên giữa cái tối tăm của chốn tù ngục. Hình ảnh ngôi sao Hôm xuất hiện mang vẻ đẹp lung linh hiếm có và giàu chất thơ. Nguyễn Tuân sử dụng bút pháp lấy động để tả tĩnh, thủ pháp đối lập, dựng lên khung cảnh chốn tù lao hoang vắng, yên tĩnh. Cảnh tĩnh nhưng không chết, âm thanh, màu sắc kết nối với nhau bằng những sợi dây vô hình, toát lên nền ấy là tâm trạng của viên quản ngục.
Quản ngục xuất hiện trong cái dáng người lặng lẽ đầy ưu tư trăn trở. Dường như ngục quan đang bâng khuâng về hoàn cảnh sống của mình giữa chôn tù lao bức bối trói buộc con người, trói buộc nhân cách đang khát khao cái đẹp. Quản ngục trân trọng và cảm phục Huấn Cao bởi tài hoa và khí phách anh hùng, âm thầm tiếc nuối cho một nhân cách lớn sắp rơi vào tay tử thần. Cái nhìn của ngục quan hướng tới ngôi sao Hôm cũng là cái nhìn hướng đến cái đẹp, cái cao cả của tâm hồn. Bởi vậy mà giữa cái tối tăm của ngục tù, ngục quan vẫn hiện ẩn với vẻ đẹp của con người lương thiện, khao khát cái đẹp và trân trọng người tài là một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đểu hỗn loạn, xô bồ. Khơi được nét tâm trạng này của quản ngục, Nguyễn Tuân càng khẳng định thêm sức tỏa sáng của hình tượng Huấn Cao. Chính tài hoa và khí phách anh hùng của Huấn Cao đã đánh thức một tâm hồn lâu nay ngủ quên trong bóng tối để tâm hồn ấy tìm được trái tim đồng cảm, tri âm, tri kỉ. Phải chăng đó cũng là một ngôi sao sáng giữa màn đêm đen?
Đoạn văn là sự kết hợp giữa cảnh và tình. Cảnh được khúc xạ qua tình và tình được bật lên từ cảnh. Nghệ thuật phục bút của Nguyễn Tuân cùng việc sử dụng lớp từ cổ: nội cỏ, thành phú, tiếng kiểng, tiếng mõ canh đã tạo được không khí truyện, đưa người đọc trở về thời xa xưa. Đoạn văn mang đậm phong khí cổ điển với chất văn đỉnh đạt và bút lực tài hoa. Chỉ một đoạn văn ngắn, Nguyễn Tuân đã tạc thêm một ít hồn xưa vào lòng người.