Câu 1. Các biện pháp đối phó của ta đối với quân Tuởng và bọn tay sai :
- Biện pháp đối phó của ta đối với Tưởng:
+ Hoà hoãn, tránh xung đột, giao thiệp thân thiện, thực hiện sách lược đó, ta nhường cho bọn tay sai của Tưởng (Việt Quốc, Viêt Cách) 70 ghế trong Quốc hội không thông qua bầu cử và 4 ghế bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp, nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm cho quân Tuởng, nhận tiêu tiền “quan kim” và “Quốc tệ”.
- Đối với bọn tay sai: Dựa vào quần chúng kiên quyết, vạch trần âm mưu và hành động chia rẻ, phá hoại của chúng. Những kẻ phá hoại, nếu có đủ bằng chứng thì trừng trị theo pháp luật.
- Nhân nhượng với Tưởng và tay sai của chúng chỉ là tạm thời, trong giới hạn cho phép để thực hiện chủ trương cùa ta: “Mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn về nguyên tắt chiến lược”
Câu 2. Mục đích của chính phủ ta kí Hiệp định Sơ bộ với Pháp 6 - 3 - 1946 và Tạm ước 14 - 9 - 1946:
- Chính phủ ta kí Hiệp định Sơ bộ với Pháp 6 - 3 - 1946 nhằm mục đích: Nhanh chóng đuổi 20 vạn quân Tưởng về nước, tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến chống Pháp sau này.
- Kí Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946, nhằm kéo dài thêm thời gian hoà hoãn để xây dựng và củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến mà ta biết chắc là không thể tránh khỏi.
Như vậy, việc Chính phủ ta kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ 6 - 3 - 1946 và Tạm ước 14 - 9 -1946 đều có chung một mục đích là có thời gian hoà bình để xây dựng và củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp.