Phân tích bài Thề non nước của Tản Đà.

Báo cho non chớ có buồn làm chi. Nước kia dù hãy còn đi,Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui. Nếu nước đã không thể quên non thì non cũng không bao giờ rời xa được nước

Lời giải

   Báo cho non chớ có buồn làm chi.

   Nước kia dù hãy còn đi,

   Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.

   Nếu nước đã không thể quên non thì non cũng không bao giờ rời xa được nước. Lời thề của non nước sẽ đời đời bất diệt:

   Nghìn năm giao ước kết đôi,

   Non non nước nước không nguôi lời thề.

   Nội dung của bài thơ trên đây được xây dựng trên phương diện tình cảm, một tình cảm thắm thiết và bất di bất dịch. Tản Đà đã dùng non và nước để diễn tả nỗi lòng của mình và người tình cũ một cách tài tình. Dù lời văn có tính cách ước lệ, nhưng không vì thế mà bài thơ kém phần linh động, trái lại nhờ sự ước lệ mà giọng văn trở nên trang trọng, quý phái.

   Về phần hình thức, tác giả đã dùng những chữ gợi hình như: Suối khô dòng lệ, xương mai, hao gầy, đã đẩy tuyết sương, diễn tả được sự mong chờ, thương nhớ của người đẹp. Trong cảnh nhớ mong ấy giai nhân đã võ vàng, tiều tụy.

   Nói đến sắc đẹp của người tình, dù đã trải qua những tháng đợi, năm chờ, vẫn không mất đi những nét "trầm ngư lạc nhân” của thuở nào, tác giả đã viết:

   Trời tây ngả bóng tà dương,

   Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.

   Giọng điệu trầm buồn trong lời  thơ đã diễn tả đúng như những tiếng nhạc khi khoan khi nhặt, lúc bổng lúc trầm, hai chữ non non, nước nước được nhắc đi nhắc lại nhiều lượt như lời nức nở than vãn

   Nước non nặng một lời thề,

   Nước đi, đi mãi không về cùng non.

   Nhớ lời nguyện nước thề non”

   Nước đi chưa lại, non còn đứng không...

   Để minh chứng cho lời thề non nước bền chặt với thời gian, tác giả đã dùng những lời lẽ cương quyết, đanh thép:

   Dù cho sông cạn đá mòn,

   Còn non còn nước vẫn còn thề xưa.

   Toàn bài thơ lời lẽ rất giản dị, chân thành và không có gì là gượng ép hay giả tạo. Đó là nhờ sự rung cảm chân thành của tác giả trong khi sáng tác.

   Tản Đà đã dung hòa được tất cả màu sắc, âm thanh, tình cảm để tạo nên những vần thơ tự nhiên, nhưng có một sức gợi mạnh mẽ.

   Dù có tiếng là phóng túng, Tản Đà vẫn không để cho tình cảm lấn áp lí trí một cách dễ dàng. Thi sĩ đã dùng tình cảm để nâng đỡ lí trí, để tạo cho mình một sự nghiệp văn chương quan trọng.

   Lời thơ của Tàn Đà dù ở phương diện nào cũng tỏ ra phảng phất phong độ của một người rất hăng hái và có nhiệt tâm quyết đem “bút sắt mà mài lòng son".

   Giữa thời quốc biến, dù không thể  thực hiện hoài bão của mình trong việc giúp dân, cứu nước, Tản Đà cũng đã góp phần vào việc tô điểm cho nền văn học nước nhà dược thêm phần tráng lệ.