Trong giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng Tám. Thạch Lam là một cây bút xuất sắc đa tài năng. Truyện ngắn Hai đứa trẻ rút trong tập Nắng trong vườn (1938) là một tác phẩm tiêu biểu của ông. Với cách viết giàu chất lãng mạn, truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn nhưng đầy cá tính nhân văn.
Trong mỗi tác phẩm truyện kể, ngoài yếu tố nhân vật còn phải kể đến một yếu tố khác, đó là hoàn cảnh. Xây dựng hoàn cảnh, tác giả nhằm xác lập mối quan hệ giữa nhân vật và môi trường xã hội mà nhân vật đó đang sống. Sự tác hợp giữa hoàn cảnh và nhân vật sẽ tạo nên chất keo kết dính các chi tiết và nhờ vậy nội dung tác phẩm trở nên liền mạch, nghệ thuật của tác phẩm đó sẽ hoàn chỉnh hơn. Đó là một trong những yêu cầu bắt buộc không chì của văn học hiện thực (Hoàn cảnh sinh tính cách).
Nhà văn Thạch Lam mở đầu truyện ngắn Hai đứa trẻ bằng những hình ảnh vào thời khắc của một ngày sắp tàn. Vào thời điểm đó cảnh vật của phố huyện nghèo hiện ra xơ xác, tiêu điều, với những con người mỏi mệt quẩn quanh nơi phố chợ. Cùng xuất hiện với những gì tàn tạ nhất ở phố huyện đó là nhân vật Liên và An. Qua cái cảm nhận của hai tâm hồn ngây thơ ấy, mọi cảnh vật được hiện lên một cách chi tiết và chân thực nhất.
Nhưng trước hết, cái cảnh chiều tàn nhưng vẫn được nhà văn miêu tả đậm chất thơ.
“Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cất hình rõ rệt trên nền trời... Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào...”.
Bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn ở trong đó cả một nỗi buồn mà người vẽ lên đã cố ý che lấp bằng những mảng màu sặc sỡ. Sở dĩ phải miêu tả cảnh vật ấy. Thạch Lam như muốn giúp người ta đi tìm chút cảm giác nhẹ nhõm sau những trăn trở của cuộc đời. Văn Thạch Lam bao giờ cũng giàu cảm xúc để rồi khiến người đọc như chìm vào cõi mộng của một bài thơ tình lãng mạn. Từng câu chữ cứ nhè nhẹ lan thâm vào lòng người trong cảm giác say mê. Có người nhận xét văn Thạch Lam vừa chứa chất hiện thực vừa giàu tính lãng mạn. Ý kiến đó rất phù hợp khi nói về truyện ngắn Hai đứa trẻ, bởi vì trong truyện ngắn này hiện thực của cuộc sống tủi buồn, mòn mỏi luôn vây hãm lấy những con người sống chung trong phố huyện, ở đây gọi là phố huyện nhưng thực chất mới chỉ là cái chợ xép nhỏ. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cùng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất của quê hương này...”.
Chỉ cần nhìn vào cái chợ tiêu điều này cũng có thể thấy cuộc sống của người dân khổ cực thế nào? Những người bán hàng về muộn đứng nói chuyện với nhau ít câu như thế trao lại cho nhau những nỗi buồn tẻ cuộc sống, ống kính tác giả không quên ghi lấy hình ảnh những đứa trẻ con nhà nghèo, đang mưu kế sinh nhai bằng những phế phẩm của phiên chợ. Những số phận ấy “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay hất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó. Đây là hiện thân đầy đủ nhất của sự khốn khổ. Tất cả nhưng đang cố sức để tống hi vọng. Sự cố gắng thì đã quá sức, còn hi vọng thì vẫn mơ màng". Ở truyện ngắn này, các nhân vật đều đang tìm cách cầm cự trong cuộc sông hiện tại. Chị Tí với hàng nước bên cái móc gạch nhưng không biết bán cho ai.
Khá hơn đôi chút là hàng bác phở Siêu, nhưng đó cũng chỉ hé lên một mảng ánh sáng đèn dầu leo lét. Thế mà với cuộc sống ở phố huyện nghèo này thì hàng của bác vẫn là một thứ “xa xỉ”.
Cảnh của phố huyện thật là tiêu điều xơ xác. Cuộc sống của những con người ở đó thì mòn mỏi, nặng nề. Mọi hoạt động như để chống chọi lại với sự nghèo nàn khốn khó nhưng tất cả chỉ lâm vào bế tắc. Hoàn cảnh đó thường sản sinh ra những con người quái đản, đó là bà cụ Thi “hơi điên”, với tiếng cười khanh khách đi vào bóng đêm. Cụ Thi điên là chứng tích của sự sa sút về cuộc sống, một biểu hiện tiêu biểu cho quá trình tìm tòi lối thoát trong tuyệt vọng. Sự xuất hiện của nhân vật cụ Thi “hơi điên” càng làm cho nhân vật truyện ngắn Hai đứa trẻ thêm cụ thể, sinh động, tạo cho bức tranh cuộc sống trở nên ngột ngạt.
Cảnh chiều tàn nơi phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là một góc thu nhỏ của xã hội cũ. Ở đó những số phận con người được hiện lên rõ ràng nhất. Tất cả tập hợp lại trong một không gian chật hẹp và tăm tối.
Thông qua phần đầu của truyện, nhà văn Thạch Lam đã tái hiện lại bối cảnh cuộc sống của những năm trước Cách mạng tháng Tám. Bằng việc phác họa cảnh phố huyện ngày tàn, truyện ngắn Hai đứa trẻ đã chứng tỏ nhà văn am hiểu sâu sắc cuộc sống tù túng của người nông dân lao động đồng thời lên tiếng bảo vệ quyền sống và sự công bằng cho xã hội thời bấy giờ.
Với bút pháp tả cảnh đạt đến chuẩn mực truyện mang âm hưởng của một bài thơ trữ trình nhưng gợi cảm xúc buồn man mác. Nghệ thuật miêu tả cộng với niềm cảm hứng lãng mạn được tác giả sử dụng đã đưa truyện ngắn này xứng đáng với những tác phẩm xuất sắc cùng thời.
Đáng quý là trong cái cảnh chiều tàn ấy, tình cảm con người vẫn còn chưa tàn tạ. Dù không khấm khá hơn, nhưng Liên vẫn mong có tiền để đưa cho những đứa trẻ lam lũ đang tìm kiếm những vật rơi rớt lại sau phiên chợ tiêu điều. Liên không chỉ thương mình và An mà còn hướng đến cả bao số phận cơ cực khác. Tất cả những con người trong phố huyện này, từ mẹ con chị Tí, ngày nào cũng như ngày nào quẩn quanh với những công việc chẳng có gì khác là ban ngày đi bắt tép, tối về dọn quán bán nước cho mấy chú lính tuần, cho đến hàng phở Siêu leo lét ngọn đèn dầu, bà cụ Thi “hai điên” với tiếng cười khanh khách... Tất cả chi nói lên cái mòn mỏi của cuộc sông nơi phố huyện mà chưa phải là những gì tha hóa, khiến con người phải độc ác.
Thạch Lam không phải là nhà văn hiện thực phê phán như Nam Cao hay Ngô Tất Tố, nên ngòi bút của ông không khai thác cái trần trụi của cuộc đời lam lũ. Mặc dù thế, trong các bài thơ rất đỗi tinh tế là truyện ngắn Hai đứa trẻ này, Thạch Lam đã gián tiếp phản ánh và tố cáo cái xã hội ngột thở, tù đọng, trong đó, cuộc sống con người đang mất hết ý nghĩa, đang bị dồn đến chân tường bế tắc. Và từ thực tế ấy, tác giả đã chuẩn bị cho đoạn tiếp theo miêu tả cái khát vọng được đi xa, mơ hồ, kín đáo trong hình ảnh chuyến tàu đêm với tâm trạng háo hức của hai đứa trẻ.