Lời giải chi tiết
I. Trật tự trong câu đơn
1. Cho đoạn trích và trả lời câu hỏi:
Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra: Đó là một con dao nhỏ, nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp:
- Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện.
(Nam Cao - Chí Phèo)
a) Có thể sắp xếp phần in đậm theo trật tự “rất sắc, nhưng nhỏ” mà câu vẫn phù hợp với mạch ý trong đoạn văn được không?
b) Việc sắp xếp theo trật tự “nhỏ, nhưng rất sắc” có tác dụng như thế nào đối với sự thể hiện ý nghiaz của câu và sự liên kết ý trong đoạn văn?
c) So sánh với trật tự của các từ ngữ đó trong trường hợp dau:
Hắn có một con dao rất sắc nhưng nhỏ. Dao ấy thì chặt làm sao được cành cây to này?
Trong mỗi trường hợp trên đây, trật tự sắp xếp các bộ phận câu có mục đích gì? (xét trong quan hệ về ý nghĩa với các câu đi trước, đi sau)
Trả lời:
a) Nếu ta thay đổi trật tự phần in đậm ở trên thành: Đó là một con dao rất sắc, nhưng nhỏ thì nội dung ý nghĩa và cấu tạo ngữ pháp của câu không sai. Nhưng đặt vào đoạn văn thì trật tự sắp xếp như vậy không phù hợp với mục đích của hành động: Tác giả đoạn văn muốn nhấn mạnh mục đích đe doạ, uy hiếp bá Kiến của nhân vật Chí Phèo.
b) Nếu ta đổi vị trí của từ nhỏ cho cụm từ rất sắc thì cái ý mà tác giả muốn biêu đạt (uy hiếp và đe doạ đối phương) chẳng những không được nhấn mạnh mà còn bị giảm đi. Và như thế, mục đích hăm doạ của Chí Phèo đối với bá Kiến cũng không được làm nổi bật.
c) Đặt vấn đề sắp xếp lại trật tự từ trong đoạn văn trên của Nam Cao là không hợp lí, nhưng với tình huống khác, ngữ cảnh khác, thì sự sắp xếp ngược lại lại phù hợp. Ví dụ, trong câu: Hẳn có một con dao rất sắc nhưng nhỏ. Dao ấy thì làm sao chật được cành cây to này, mục đích của người nói là muốn phủ định tác dụng của con dao (con dao tuy sắc nhưng nhỏ thì không thể chặt cành cây to dược). Thế nên, trong trường hợp này, việc đặt tính từ nhỏ ớ sau rất sắc lại là hợp lí.
Như vậy, trong mỗi tình huống giao tiếp, cần xác định trọng tâm thông báo của câu từ đó mà có cách sắp xếp trật tự từ sao cho hiệu quả biểu đạt là cao nhất.
2. Em hãy lựa chọn cách viết tối ưu và giải thích lí do của sự lựa chọn đó.
Trả lời:
Có hai cách viết sau:
- Bạn em nhỏ người nhưng rất thông minh. Thầy giáo dã đưa bạn ấy vào đội tuyển học sinh giỏi.
- Bạn em rất thông minh, nhưng nhỏ người. Thầy giáo đã đưa bạn ấy vào đội tuyển học sinh giỏi.
Trong hai cách viết trên, cách thứ nhất rõ ràng tỏ ra phù hợp hơn. Trong cách viết thứ nhất, cụm từ rất thông minh là trọng tâm thòng báo, là luận cứ quan trọng nhất để dẫn tới kết luận sau: "Thầy giáo đưa bạn ấy vào đội tuyển học sinh giỏi". Viết như câu thứ hai không phù hợp với lập luận, không làm nổi bật trọng tâm mà người nói muốn nhấn mạnh (sự thông minh của người bạn). Trong trường hợp thứ nhất, hai câu diễn đạt một lập luận, câu đầu nêu luận cứ, câu sau là kết luận. Câu đầu có hai luận cứ, trong đó luận cứ "rất thông minh" có hiệu lực mạnh, mang trọng tâm thông báo nên nó cần đặt sau để được làm nổi bật.
3. Hãy phân tích tác dụng của mỗi cách sắp xếp
Trả lời:
Ba đoạn văn đã cho đều có những bộ phận biếu hiện thời gian (trạng ngữ chỉ thời gian). Theo quy tắc ngữ pháp thì các bộ phận này đều có thể đặt ở đầu câu, giữa câu hay cuối câu. Tuy nhiên, trong mỗi văn cảnh cụ thể, vì hướng đến những mục đích khác nhau nên cách sắp xếp của từng tác giả lại khác nhau.
a) Đoạn văn 1 :
... Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách /.../. Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt cõng Mị đi.
Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra...
(Tô Hoài — Vợ chồng A Phủ)
Trong đoạn văn này, trạng ngữ chỉ thời gian (Một đêm khuya) được đặt ở đầu câu vì nó phải đảm nhận chức năng nêu hoàn cảnh thời gian cho các sự kiện xảy ra sau đó (Mị bị bắt rồi bị đưa đi). Trong khi đó, ở câu tiếp theo, phần trạng ngữ chỉ thời gian (Sáng hôm sau) vừa có tác dụng như trạng ngữ ở câu trên lại vừa có tác dụng liên kết câu. Người ta không thể đặt nó ở cuối câu hay giữa câu, vì như thế câu văn sẽ mất sự liên kết và các sự kiện được kể không liền mạch.
b) Đoạn văn 2:
... Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết...
Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp...
(Nam Cao — Chí Phèo)
Trong câu văn này, trạng ngữ chỉ thời gian (một buổi sáng tinh sương) lại đặt ớ giữa câu, đằng sau hành động của một chủ thể (Một anh đi thả ống lươn). Sở dĩ cần phải sắp xếp theo trật tự ấy là do các câu văn trước đang tập trung vào vấn đề: Ai biết người nào đẻ ra Chí Phèo? Cho nên cần nối tiếp đề tài đó bằng việc nêu người hành động (chứ không phải thời gian của hành động) lên đầu câu.
c) Đoạn văn 3:
... Nhưng rồi hỏi ra mới biết rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: Cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra dã mấy năm.
(Tô Hoài — Vợ chồng A Phủ)
Trong trường hợp này, bộ phận chỉ thời gian (đã mấy năm) đứng ở cuối câu. Điều đó do nhiệm vụ thông báo của nó quyết định: Nó biểu thị phần tin mới, phần trọng tâm thông báo. Về mặt ngữ pháp, nó không phải là thành phần chính của câu. Nhưng các thành phần chính (Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra) trong trường hợp này chỉ là một hình thức khác của việc lặp lại một thông tin đã biết, đã được nhắc tới như những câu trước đó (cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí), nghĩa là một thông tin cũ. Điểu quan trọng ở câu sau này là thời gian về làm dâu. Vì thế, tuy là thành phần thứ yếu về ngữ pháp nhưng lại quan trọng về mặt thông báo nên nó cần được đặt ở cuối câu, vị trí thường dành cho phần tin mới, tin quan trọng. Một lí do khác là việc đặt thành phần này ở cuối câu cũng là đê báo trước một nội dung thông tin sẽ ngay lập tức được nói tới (thông tin về cái ngày mà Mị chưa về làm dâu nhà Pá Tra).
II. Trật tự trong câu ghép
1. Trong những câu ghép ở các đoạn trích sau, vì sao vế in đậm lại đặt ớ vị trí sau so với vế còn lại? Khi đặt vế đó ở vị trí trước thì nội dung của câu và mạch ý của đoạn có gì thay đổi?
Trả lời: