Tác giả mơ rộng, sự nhầm lẫn để tăng tính kì thú cho câu chuyện. Từ việc một đôi trai gái Pháp nhầm tác giả (tôi) với Khải Định đến việc dân chúng Pháp nhầm tác già cùng tình ca những người da vàng trên đất Pháp là Khải Định. Rồi đến cả chính phủ, những kẻ đích danh mời Khái Định làm "thượng khách" cũng không nhận ra nên để tránh thất thế trong ngoại giao bèn đổi xử với những người Việt Nam yêu nước như đối xư với vị hoàng đế An Nam, là cá đều được -hộ giá tuốt". Chắc chắn thực tê ít ai tin có sự nhầm lẫn kì lạ đó. Nhưng như thể mới là nghệ thuật. Chuyện đúng là bịa, là đùa cho vui nhưng người đọc lại thây như thật một trăm phần trâm. Sư thật là vua Khái Định sang Pháp di lén lút làm bao chuyện ám muội. Khải Định không "vi hành" kiểu đó thì làm gì có‘sự nhầm lẫn kiểu đó. Câu chuyện cứ như một ngày hội giá trang, thực mà hư, ào mà như thực, không có Khai Định trong tác phẩm mà Khải Định vẫn cứ hiện ra rõ mồn một. Chính sự biến ảo đó đã tạo cho câu chuyện có nhiều tầng nghĩa. Thật là một mũi tên trúng nhiều đích.
Để tăng tính hiệu quả cho giá trị phê phán, tố cáo, nhà văn đã chọn thủ pháp viết thư Như đã nói, thư gửi cô em họ dễ làm người dọc nhầm tướng là thư tình nên từ sự tò mò mà sẽ theo dõi kĩ lưỡng. Tuy nhiên, đó chi là tác dụng phụ. Việc sử dụng thủ pháp viết thư đã đem đến một hiệu quả thẩm mĩ cao hơn.
Thứ nhất, bằng lối viết, thư, giọng điệu tác phẩm có thế thủy đổi một cách linh hoạt: Từ lối trần thuật khách quan có thể chuyển sang giọng trữ tình thân mật, rồi có thể liên hệ,so sánh, hồi tưởng quá khứ hoậc vẽ ra tương lai,... Có lúc đang từ giọng văn mỉa mai châm biếm, tác giả có giọng chua xót, đặc biệt là cái chua xót của một ngứời dân mất nước. ‘ • -
Thứ hai, lối viết thư khiến người kể chuyện tha hồ chuyển cành, chuyển đề tài. Đang từ cánh trong xe điện ngẩm ờ Pa-ri chuyển tới cánh quê nhà thời thơ ấu. rồi liên tưởng sân tận Trung Quốc để nói chuyện cải trang vi hành của vua Nghiêu, vua Thuấn, trờ về Pháp để nói chuyện vua Pi e,...
Lối viết thư còn cho phép tác giá tha hổ bộc lộ thái độ chù quan với hàng loại những giả định, đánh giá. Với giọng chủ quan ấy, người đọc cảm nhận rất rõ thái độ của người viết đối với các sự việc đang kế.
Một thủ pháp đáng lưu ý của Vỉ hành là gợi nhiều hơn tả. Các chi tiết chú yếu mang tính gián tiếp, mục đích là để người đọc hình dung, tưởng tượng, suy đoán, phát hiện những cái trái ngược trong cùng một hiện tượng: Ông vua cao quý thực chất chỉ là một con rối; chính sách "báo hộ". nghe ra thì có vẻ nhân đạo nhưng thực chất là bất nhân, tàn bạo. Bút pháp gợi tạo khoáng trống trí tuệ để người đọc suy ngẫm tìm hàm ý, giái mã những hàm ngôn. Vì thế tiếng cười trong Vi hành không giòn giã ngay trên bệ mãt mà thâm trầm ở bề sâu. Đó là tiếng cười của trí tuệ sắc sảo. Tiếng cười mang đến nhiều sắc điệu thẩm mĩ: Có sự khinh khi kẻ thù của người cách mạng lẫn nổi đau cùa người dân mất nước; có chất thâm thúy cùa nụ cười á Đông và chất trẻ trung của thanh niên phương Tây; có sự kế thừa cả Nguyễn Khuyến, Tú Xương và sự phát triển trong tiếng cười khỏe khoắn, lạc quan của người cộng sản.
Với một truyện ngắn vừa phải, mục đích của tác giả là tố cáo ông vua thuộc địa hèn hạ đồng thời vạch mặt chủ nghĩa thực dân. Cả hai mục đích đã đạt được một cách mĩ mãn nhờ tài năng vãn chương độc đáo "như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất điêu luyện, rất Pháp" nhưng không mất đi bản sắc của một ngòi bút Việt Nam giàu lòng yêu nước. "Vi Hành là một kết tinh nghệ thuật thuộc loại xuất sắc nhất thể hiện sự kết hợp giữa chính trị và văn chương trong sự nghiệp của Bác Hồ" (Nguyễn Đinh Chú).