Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ Tổ quốc trong bất kì hoàn cảnh khốc liệt nào. Đó là vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng tiêu biểu cho cả dân tộc. Cũng xoay quanh đề tài này, không ít những nhà văn nhà thơ đã cho ra đời những tác phẩm đi cùng thời gian.. Không nằm ngoài nó, cùng viết về đề tài người anh hùng cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hai nhà văn Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành cũng đã góp cho làn gió văn học Việt Nam hai tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm. Đó chính là hai tác phẩm Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình.
Đầu tiên, là Rừng xà nu. Tác phẩm được Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965 – thời điểm mà của nước sục sôi đánh Mỹ, hoàn thành ở khu căn cứ chiến trường miền Bắc Trung Bộ qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trung Thành, tác phẩm cất lên như một bản anh hùng ca tráng lệ, là một biểu tượng cho tinh thần bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và đồng bào ta nói chung. Thông qua những nhân vật anh hùng, dũng cảm tác giả đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một Tây Nguyên với thiên nhiên và con người có sức sống bất diệt trong huỷ diệt.
Truyện kể về cuộc đời Tnú, một người con trai lang Xô Man đi lực lượng đã ba năm năy được về phép thăm làng. Lồng trong tác phẩm là câu chuyện nổi dậy của dân làng Xô Man. Làng Xô Man của Tnú nằm trong tầm đại bác của đồn giặc đã trở thành làng chiến đấu. Bé Heng đưa anh về làng, cả làng mừng vui đón anh. Tối hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả buôn làng nghe về cuộc đời của Tnú: mồ côi cha mẹ, lớn lên trong tình yêu thương của dân làng, mới bảy, tám tuổi đã cùng Mai đi tiếp tế làm giao liên cho cán bộ Quyết trong rừng. Có lần Tnú bị bắt, bị giam cầm, bị đánh đập tra khảo dã man nhưng anh vẫn nhất quyết không khai. Vượt ngục trở về thì anh Quyết đã hi sinh. Nghe lời anh, Tnú đã cùng đám thanh niên cầm giáo mác chuẩn bị vũ khí chiến đấu. Bọn giặc ập tới khủng bố, thanh niên trốn hết vào rừng, chúng bắt vợ con Tnú tra khảo cho đến chết, Tnú xông ra cứu nhưng không kịp, anh bị bắt và bị đốt cháy mười đầu ngón tay. Dân làng, dưới sự chỉ huy của cụ Mết cầm giáo mác đứng lên tiêu diệt bọn ác ôn cứu Tnú. Sau đó, Tnú tham gia lực lượng vũ trang. Được chỉ huy cho về thăm làng một đêm. Sáng hôm sau, cụ Mết, Dít tiễn Tnú lên đường trước cánh rừng xà nu bát ngát nối tiếp nhau chạy tới tận chân trời.
Tiếp theo là Những đứa con trong gia đình, ra đời vào năm 1966 qua giọng văn của Nguyễn Thi – một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ sĩ giải phòng miền Nam. Với một kết cấu thuật lại qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt đứt nối sau những lần ngất đi, tỉnh lại càng làm cho truyện giàu cảm xúc, diễn biến linh hoạt, không tuân theo trật tự thời gian. Thêm vào đó, ngôn ngữ của nhân vật thấm đẫm màu sắc Nam Bộ, sinh động, ấn tượng tạo nên màu sắc địa phương độc đáo của tác phẩm.
Truyện được viết chủ yếu dựa trên dòng hồi tưởng của nhân vật Việt. Kí ức của nhân vật mở ra trong từng trang của quá khứ, một quá khứ không xa xôi, đó là những ngày sống trong gia đình với ba, má, chị Chiến với bao kỉ niệm tốt đẹp. Truyện kể về chiến sĩ Việt bị thương trong một trận đánh. Việt tấn công xe bọc thép bằng thủ phảo và tiêu diệt được nó. Bị ngất đi, lạc đồng đội, nằm giữa một khu rừng xa vắng, Việt tỉnh lại nhiều lần sau cơn ngất. Anh nhớ lại những kỉ niệm về gia đình, về ba má, về chị Chiến, nghĩ đến đồng đội, nghĩ đến sự sống và cái chết. Những suy nghĩ đã góp phần nói lên phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ giải phóng quân. Lần thứ nhất tỉnh dậy, thấy trời đất tối đen, trận địa thì phẳng lặng, mùa xác chết tanh tưởi, hôi hám của lính Mĩ, rồi hố bom, công sự, Việt lê từng bước với những vết thương rỉ máu. Cảnh ngộ trong hiện tại thật bi đát, nhưng người chiến sĩ vẫn vượt lên. Anh vẫn hồi tưởng về những kỉ niệm đẹp về gia đình, về tình chị em. Lần thứ hai tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu, Việt nhớ lại những ngày cùng chị Chiến đi bắt ếch, Việt thường dành phần nhiều cho mình. Một lần đi đánh Mĩ trên sông Địch Thuỷ, bắn được một thằng Mĩ, Việt cũng đòi tranh công và chị Chiến lại nhường cho em. Lần thứ ba tỉnh dậy, tiếng súng của kẻ thù vẫn nổ. Xe bọc thép chạy mỗi lúc một gần, pháo nổ càng gần hơn. Bị thương nên Việt rất đau đớn, mắt không nhìn rõ được vât gì, anh nghĩ tới hoàn cảnh nếu không may bị địch bắt và giết chết. Việt không sợ chết những lại suy nghĩ nhiều nếu chết mà không được sống chung với anh Tánh và không còn được đi bộ đội thì buồn lắm. Lần thứ tư tỉnh dậy, Việt vẫn nghe tiếng súng từ xa vọng lại. ý nghĩ trở về sâu sắc nhất là ngày đầu nhập ngũ, lúc đó Việt mới mười tám và chị Chiến mười chín. Hai chị em tranh nhau đi bộ đội để trả thù cho má. Những chi tiết cuối cùng rất cảm động, hai chị em cùng đi bộ đội, họ bàn bạc đem bàn thờ má qua gửi nhà chú Năm. Câu chuyện kết thúc khi Việt gặp lại đơn vị và được đưa đi điều trị chu đáo. Việt lại nhớ đến chị Chiến với biết bao những tình cảm xúc động nhớ thương.
Đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trước tiên thể hiện ở những nhân vật mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, từ đau thương trỗi dậy để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc. Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ. Trong khi đó Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc. Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. Cùng với đó, những đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra cho họ đều tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc. Tnú thì chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Chiến và Việt lại chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc. Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tnú lên đường đi lực lượng dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì với họ, chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
Tuy đi lên từ những đau thương, mất mác nhưng họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam dũng cảm trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man mà vẫn một mực không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù. Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ. Việt thì bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.
Không dừng lại tại đó, chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt. Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù trong rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương, nhưng vẫn ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình. Về phần Việt và Chiến, ông nội bị giặc giết, cha trở thành cán bộ Việt Minh rồi bị giết hại dã man, má tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước. Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.
Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Như hai bản anh hùng ca thời đại đánh Mĩ, hai tác phẩm đã khắc sâu được cuộc chiến đấu của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược hết sức ác liệt và gay go. Qua đó tác giả cũng ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ, là những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu hi sinh. Với giọng văn ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời kỳ chống Mĩ, hai tác phẩm đều được tác giả làm hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước. Qua đó cũng thấy rằng, cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.