Nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và giải thích ý nghĩa nhan đề của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được lấy làm đề từ cho bài thơ

Bài thơ Tiếng hát con tàu ra đời trong những năm miền Bắc mới được giải phóng vài năm. Khi ấy nhân dân ta đang tiến hành công cuộc hàn gắn các vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước

Lời giải

Bài thơ Tiếng hát con tàu ra đời trong những năm miền Bắc mới được giải phóng vài năm. Khi ấy nhân dân ta đang tiến hành công cuộc hàn gắn các vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Phong trào vận động nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế miền Tây Bắc được tuổi trẻ hăng hái tham gia, hưởng ứng nhiệt tình. Lớp thanh niên hồi ấy rất quen thuộc với những câu thơ đầy hứng khởi lãng mạn:

       Lứa tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy.

Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường.

(Bùi Minh Quốc - Lên miền Tây)

Nhưng bài thơ này không đơn giản là sự tinh họa, tuyên truyền phục vụ cho một chủ trương chính sách. Với Chế Lan Viên, sự kiện kinh tế - xã hội ấy chỉ là một gợi ý, một điểm xuất phát cho nhà thơ thể hiện khát vọng về với nhân dân, đất nước với những ki niệm sâu nặng tình nghĩa của nhân dân trong những năm kháng chiến gian khổ, cũng là tìm về nơi ngọn nguồn của hồn thơ.

Bài thơ có nhan đề là Tiếng hát con tàu. Làm gì có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc? Con tàu ở đây là biểu tượng cho khát vọng ra đi, đến với những miền xa xôi, đến với nhân dân đất nước và cũng còn là đến với những ước mơ, những ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật. Con tàu ở đây chính là tâm hồn nhà thơ. Và Tiếng hát con tàu là tiếng hát hăm hở, say sưa, tràn đầy phấn khới của một tâm hồn khỏe khoắn, khoáng đạt bộc lộ cái khát vọng ấy của chính mình. Tâm hồn ấy đã có một thời “khép cửa phòng văn hì hục viết” để “nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày”, giờ đây đang phá tung sự chật chội của cái lồng cá nhân để dang cánh bay thẳng vào bầu trời nhân dân cao rộng. Đi “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”, cái phút bừng sáng ấy lại biến hồn thơ Chế Lan Viên thành một con tàu. Và người đọc lập tức bị cuốn vào một hơi thở khẩn trương, giục giã, gấp gáp như chính nhịp đi của con tàu. Ngay lời đề từ đã đầy cuống quýt.

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.

 Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

    Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?

Tố quốc đang vẫy gọi và tâm hồn nhà thơ dang hướng tới cuộc sống của nhân dân. Vậy thì “có riêng gì Tây Bắc” - khi lòng ta đã hóa những con tàu”, nơi nào mà chẳng là Tồ quốc, chẳng có nhân dân? ‘Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?” bởi “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Cái chính là “lòng ta đã hóa những con tàu”, lòng ta muốn hòa vào Tổ quốc, muốn đến với nhân dân. Đó là con tàu - tâm hồn - nhà thơ để nói lên khát vọng của thi sĩ khi lòng ông đã bừng sáng trước cuộc sống lớn của nhân dân: “Cánh thơ tôi thoát khỏi phòng nhỏ bé - Lượn trăm vòng trên Tổ quốc mênh mông” (Chim lượn trăm vòng). Con tàu đó đang “đói những vành trăng”, đang giục giã “gọi anh đi”, đang “mộng tưởng” và mỗi đêm khuya “uống một vầng trăng!” Con tàu của hồn thơ. Một hồn thơ hối hả, náo nức, khát sống.

Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội

  Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga

Con tàu ấy đang háo hức trong hành trình đến với nhân dân, thoát khỏi đời riêng nhỏ hẹp, phá bỏ cõi lòng đóng kín. Tiếng hát con tàu là một niềm vui, một nguồn chân cảm dạt dào của một hồn thơ đóng khép đă được nhân dân hồi sinh!

Trong bốn câu thơ đề từ có hai sự đồng nhất: tâm hồn là con tàu và tâm hồn là Tây Bắc. Người đọc không khỏi băn khoăn khi đọc “Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”. Vì sao có hiện tượng này? Đó là do sự trải nghiệm sâu sắc trong cuộc sống và khả năng phát hiện tinh tế của thi sĩ về bản thân mình. Có lần ông viết về Tổ quốc:

Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào

     Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ...

Lần này, Tây Bắc cũng đến soi vào tâm hồn nhà thơ. Nhìn vào hồn mình, ông bỗng phát hiện ra Tây Bắc đâu chỉ là một miền đât, một vùng quê trên bản đồ đất nước. Tây Bắc đó là những người anh, người em anh dũng chí tình, là bà mẹ “lửa hồng soi tóc bạc - năm con đau, mẹ thức một mùa dài”, là những “bản sương giăng”, những “đèo mây phủ”, những “mùa chiến dịch” với vắt xôi “còn tỏa nhớ mùi hương”... Tây Bắc là chính hồn mình như thi sĩ đã khẳng định trong lời đề từ cũng như trong bài thơ:

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

        Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!

Về với Tây Bắc là về với hồn mình, nỗi mong chờ của Tây Bắc chính là nỗi mong chờ của hồn mình và mẹ yêu thương mà nhà thơ khát khao được gặp lại cũng là Tây Bắc: Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn ta. Vì vậy mà hai sự đồng nhất nói trên đã trờ thành một sự thống nhất biện chứng trong hồn thơ Chế Lan Viên. Và lời đề từ là khổ thơ kết tinh, tiêu biểu cho cả bài thơ Tiếng hát con tàu.

 


Bài Tập và lời giải

Đề kiểm tra 15 phút - Chương 5 - Đề số 1 - Hóa học 10

Câu 1. Chọn phát biểu đúng

A.Khí clo không phản ứng với khí oxi.

B.Khí clo phản ứng với khí oxi tạo ra Cl2O.

C. Khí clo phản ứng với khí oxi tạo ra Cl2O5.

D. Khí clo phản ứng với khí oxi tạo ra Cl2O7.

Câu 2. Tiến hành thí nghiệm sau: nhúng mẩu giấy quỳ tìm vào dung dịch nước clo. Hiện tượng quan sát được là

A.quỳ tím không chuyển màu.

B.quỳ tím chuyển thành màu đỏ.

C.quỳ tím mất màu.

D.quỳ tím chuyển thành màu đỏ, sau đó mất màu.

Câu 3. Phương pháp nào sau đây không được dùng để nhận biết khí clo?

A.Quan sát màu của chất khí.

B.Ngửi mùi của chất khí.

C.Dùng quỳ tím.

D.Hòa tan khí clo vào nước rồi thử với quỳ tím.

Câu 4. Phản ứng giữa bột sắt và chất X tạo FeCl3. Chất X là

A.dung dịch HCl.         

B.dung dịch CuCl2.

C.khí clo.                     

D.Cả A, B, C đều sai.

Câu 5. Dãy nào sau đây được sắp xếp theo chiều tăng dần tính axit?

A.HF< HI< HBr< HCl                   

B.HF< HCl< HBr< HI

C.HF< HBr< HCl< HI               

D.HCl< HBr< HI< HF.

Câu 6. Trong phòng thí nghiệm, các khí có thể thu theo hai phương pháp: dời và dời không khí. Trong các hình vẽ mô tả phương pháp thu khí dưới đây, hình vẽ nào mô tả cách thu khí clo đúng nhất?

 

A.Hình 2          B.Hình 1                      

C.Hình 3          C.Hình 1 và hình 3.

Câu 7. Cho 34,8 gam MnO2 tác dụng với HCl đăc dư. Dẫn toàn bộ lượng khí sinh ra vào 250ml dung dịch NaOH 2M. Coi thể tích dung dịch thay đổi không đáng kể, nồng độ mol các chất trong sau phản ứng là

A.1M                 B.0,3M                         

C.0,6M              D.2M.

Câu 8. Hòa tan hoàn toàn 23,8 gam hỗn hợp gồm Fe, Mg, Zn vào 450ml dung dịch HCl 2M (vừa đủ) thu được dung dịch X và V lít khí H2 (đktc). Khối lượng muối khan thu được khi cô cạn dung dịch X là

A.57,55 gam.        B.56,75 gam.                

C.75,55 gam         D.55,75 gam.

Câu 9. Lấy hai miếng sắt có cùng khối lượng 2,8 gam cho tác dụng với Cl2 và dung dịch HCl. Tổng khối lượng muối clorua thu được là

A.14,475g         B.16,475g                     

C.12,475g         D.Tất cả đều sai.

Câu 10. Cho sơ đồ chuyển hóa sau:

\(C{l_2} \to X \to Y \to Z \to X \to C{l_2}\).

Trong đó X, Y, Z là chất rắn, Y và Z đều chứa natri. X, Y,Z lượt là.

A.NaCl, NaBr, Na2CO3                     

B.NaBr, NaOH, Na2CO3

C.NaCl, NaBr, NaOH           

D.NaCl, NaOH, Na2CO3

Xem lời giải

Quote Of The Day

“Two things are infinite: the universe and human stupidity; and I'm not sure about the universe.”